Dựa quá nhiều vào xuất khẩu khiến một quốc gia trở nên dễ tổn thương hơn trước sự suy sụp kinh tế ở một nước khác. Hơn nữa, một cán cân thanh toán cân bằng là cần thiết để sự mất giá của tài sản này được bù lại bằng sự tăng giá của một tài sản khác. Cường điệu hóa quá mức một lĩnh vực cũng làm thay đổi động cơ của các doanh nhân, chính trị gia và dân chúng theo hướng tiêu cực.
Kinh nghiệm của Campuchia làm rõ điều này. Trước cuộc khủng hoảng hiện nay, nền kinh tế Campuchia tăng trưởng mạnh nhờ xuất khẩu quần áo giá rẻ, chiếm 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước này, đa số xuất sang Mỹ. Nhưng khi nền kinh tế toàn cầu gặp khó khăn, các lệnh mua “bốc hơi”. Từ tháng 9/2008 đến đầu năm 2009, khoảng 50.000 công nhân may quần áo, tức là 17% tổng lao động, đã mất việc làm. Nếu năm 2007 tăng trưởng kinh tế nước này đạt 10%, thì năm nay, WB ước đoán sẽ chỉ đạt 1% - điều sẽ dẫn tới tình trạng nghèo đói gia tăng trong năm 2009.
Tập trung thái quá vào xuất khẩu cũng bóp méo nền kinh tế. Đầu tư của tập thể, chi tiêu của chính phủ, và đầu tư trực tiếp nước ngoài đều đổ vào lĩnh vực xuất khẩu, trả giá bằng nền kinh tế nội địa mênh mông. Hàng hóa xã hội, như giáo dục công, y tế, bảo hiểm thất nghiệp và an sinh xã hội, thường không được quan tâm đúng mức.
Điều này giải thích tại sao các nền kinh tế châu Á tiết kiệm nhiều như vậy: họ cần “tự đảm bảo cho mình” và tự đặt lên vai mình những gánh nặng kinh tế này. Trên toàn khu vực, một hộ gia đình điển hình tiết kiệm từ 10-30% thu nhập hàng năm của họ. Tiết kiệm quốc gia (bao gồm cả tiết kiệm của chính phủ và tập thể) tương đương một nửa GDP của Trung Quốc, Malaysia và Singapore. Dù cần kiệm là một thói quen thường ngày, nhưng trong trường hợp này nó lại là một thói quen xấu, bởi nó rút tiền tệ khỏi tiêu dùng, nơi mà những tờ giấy bạc này có thể được sử dụng để cải thiện mức sống của người dân và toàn bộ nền kinh tế quốc gia.
Cầu trong nước ở châu Á còn bị kìm lại bởi một số nhân tố khác, bao gồm tình trạng luôn thiếu nguồn tài nguyên. Đầu tư không đúng dẫn tới phát triển tài sản thực tế một cách mù quáng bất chấp nhu cầu thực tế (không kể đầu cơ) rất yếu. Việc xây dựng nhà mới vẫn tiếp tục ở Bắc Kinh và Thượng Hải bất chấp tình trạng nhà bỏ không rất nhiều. Các ngân hàng nhìn chung ủng hộ các dự án rộng lớn và những dự án của chính phủ, vốn được đánh giá là nguy cơ vỡ nợ thấp và có thể cung cấp các khoản phụ thêm “ngon” hơn. Đây là một vấn đề đặc biệt, khi biết rằng các công ty nhỏ thường dùng vốn hiệu quả hơn, sáng tạo hơn và phân tán tài sản rộng rãi hơn.
Tương tự, việc cho vay cũng hướng một cách bất cân đối tới các lợi ích chính trị và kinh tế mạnh, dù đó là các công ty nhà nước ở Trung Quốc hay các công ty gia đình và tập đoàn lớn ở Hồng Công, Ấn Độ, Nhật Bản, Malaysia và Hàn Quốc. Tại Trung Quốc, các công ty vừa và nhỏ chiếm 70% GDP nhưng chỉ góp 20% vào nguồn lực tài chính quốc gia - xu hướng không thể giải thích đơn giản là vì nguồn vốn dồi dào của các công ty lớn.
Sự ưu tiên cho các dự án lớn và công ty lớn đã đặt quyền lực vào tay giới chóp bu. Ngay trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính châu Á cuối những năm 1990, 15 gia đình giàu có nhất Hồng Công kiểm soát 84% GDP của hòn đảo này; tại Malaysia, con số này là 76%; tại Singapore và Philippines là gần 50%. Dù nhiều thay đổi đã xảy ra từ đó tới nay, song các triều đại gia đình từ Hồng Công đến New Delhi vẫn có tầm ảnh hưởng lớn đến các nền kinh tế nước họ. Samsung, do gia đình nhà Lee kiểm soát, hiện chiếm gần 1/5 tổng kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc.
Sự tập trung tài sản và quyền lực này đã góp phần làm suy yếu sự lãnh đạo của tập thể trên toàn khu vực. Tại Nhật Bản, nhiều ông chủ đã tự cao tự đại mà không nếm xỉa cả các cổ đông trong và ngoài nước. Tại Hàn Quốc, nhiều ủy viên ban quản trị bị buộc tội biển thủ, hối lộ hoặc trốn thuế nhưng vẫn đường hoàng trở lại công ty vì tầm quan trọng của cá nhân họ đối với nền kinh tế. Sự đóng cửa trong năm nay của công ty Satyam Computer Services, một công ty công nghệ thông tin của Ấn Độ đã gian lận sổ sách nhiều năm liền, đã khiến cộng đồng doanh nhân Ấn Độ phải bắt đầu xem xét một cách nghiêm túc việc quản lý công ty. Dù các hành động phi pháp không chỉ xảy ra ở châu Á – Mỹ đã phải chứng kiến sự tan rã của một số tập đoàn khổng lồ - song trách nhiệm giải trình vẫn thiếu.
Vì vốn quá tập trung nên tăng trưởng của tầng lớp trung lưu châu Á bị kìm hãm. Dù khó tin được vào mắt mình khi đến thăm các thành phố lớn trong khu vực – mới được phủ bằng những con phố xa hoa, những quán ba đắt tiền, và những chiếc xe hơi đời mới – nhưng trên thực tế tiêu dùng tư nhân và tiền lương công nhân tỷ lệ thuận với sự sụt giảm của GDP toàn khu vực hai thập kỷ qua, dù nó đã từng tăng tuyệt đối. Tại nhiều quốc gia, người lao động không thể mua chính cái mà họ sản xuất ra, tiêu dùng nội địa hoàn toàn không thể đuổi kịp xuất khẩu trong thời kỳ ế ẩm sau khi đã suy giảm.
Tại Trung Quốc, dù xuất khẩu và thu nhập tập thể tăng trong những năm 1997-2007, tiền lương công nhân trên thực tế vẫn giảm, từ 53% xuống còn 43% GDP. Dù người dân các nước châu Á hiện nay sống tốt hơn trước đây rất nhiều nhưng sự thịnh vượng của họ vẫn không đồng nhịp với mức tăng trưởng xung quanh họ. Các tác động của điều này có thể nhìn thấy được trong hành vi tiêu dùng. Trong thập kỷ vừa qua, khi các nền kinh tế châu Á tăng trưởng, tiêu dùng nội địa gần như vẫn tương đương hoặc trên thực tế còn tương đối thấp hơn GDP. Tại Trung Quốc, tiêu dùng giảm từ 45% xuống còn 35%. Ngay cả khi chi tiêu có tăng, thì tầng lớp đông đảo người tiêu dùng giàu có mà lẽ ra tăng trưởng kinh tế phải tạo ra vẫn không hoàn toàn tồn tại.
Cái giá phải trả
Thu nhập bình quân hàng năm tại hầu hết các nền kinh tế châu Á mới nổi thấp hơn 3.000 USD tính theo giá thị trường hối đoái, hoặc thấp hơn 10.000 USD nếu tính theo cân bằng sức mua. Hơn thế, số người giàu có sống tại các khu đô thị hóa bị thu hẹp, nói một cách tương đối. Một báo cáo mới đây của công ty tư vấn McKinsey & Company ước tính khoảng 1,6 triệu hộ gia đình ở Trung Quốc kiếm hơn 36.500 USD/năm. Dù đây thuộc vào mức thu nhập khá giả, nhưng cũng không đủ để hỗ trợ cho tăng trưởng nội địa trên diện rộng. Có thể sẽ có 2 tỷ người tiêu dùng mới ở riêng Trung Quốc và Ấn Độ, nhưng hầu hết họ đều rất nghèo.
Một yếu tố khác của sự thần kỳ kinh tế châu Á – kế hoạch hóa tập trung – dẫn tới những khó khăn hiện nay. Sự giám sát của nhà nước từng tạo ra sự ổn định trong các giai đoan đầu tăng trưởng giờ đang kìm nén giới chủ và kiềm chế mạnh tăng trưởng nội địa. Sau ba thập kỷ cải cách, chính phủ Trung Quốc vẫn sở hữu 76% tài sản quốc gia, kiểm soát lĩnh vực ngân hàng, và giám sát các doanh nghiệp nhà nước vốn chiếm 1/5 nền kinh tế. Tương tự, tại Ấn Độ, chính phủ đã hủy bỏ các quy định rối rắm vốn được biết đến với cái tên “giấy phép thời cai trị của Anh”, nhưng tấm thảm đỏ vẫn bóp nghẹt các doanh nghiệp. Tại Nhật Bản, còn có một cụm từ, kansei fukyo, dành để nói về sự suy thoái nảy sinh do các sai lầm của giới hoạch định chính sách.
Rút cục, tăng trưởng dựa vào xuất khẩu khiến ta phải trả những cái giá vô hình. Nó làm phân tâm các nhà hoạch định chính sách và lãnh đạo doanh nghiệp khỏi công việc nặng nhọc là xây dựng và củng cố các thể chế cần thiết cho nền kinh tế trong nước phát triển bền vững. Nhiều trong số tài sản mới được sử dụng một cách không hiệu quả hoặc bị tích trữ, tách khỏi nền kinh tế. Trong khi đó, những quốc gia làm ra vẻ giữ đồng nội tệ của mình thấp hơn giá trị thực của nó đã bao cấp cho các nhà xuất khẩu bằng tiền của các nhà sản xuất và tiêu dùng nội địa.
Sự suy yếu rõ ràng trong một số quốc gia cũng bị lờ đi – từ tham nhũng, đến một hệ thống luật pháp không còn phù hợp, và môi trường xuống cấp. Thực vậy, khi mô hình xuất khẩu đem lại thành công, việc cải cách cơ cấu trở nên khó khăn hơn, vì các lợi ích được phong cho nó càng lớn hơn. Toàn khu vực giờ đây trở nên yếu đi, chuẩn bị cho một thời kỳ tăng trưởng chậm kéo dài. Châu Á đã bị bỏ lại với một số quyết định rất khó đưa ra trong một môi trường kinh tế rõ ràng khó khăn hơn.